1-Lịch sử hình thành và phát triển cờ Mạt chược Hồng Kông:
Theo các tài liệu trước đây, Mạt chược được phát minh bởi một nhà quý tộc ở Thượng Hải khoảng những năm 1850 ( có giả thuyết là 1870-1875)
1870-1875 khởi đầu là những con cờ làm bằng giấy.
Những bộ bài thường thì các quân bài được dập và sơn bằng máy, bài đặc biệt được khắc bằng tay, trước 1975 trong Chợ Lớn nhiều người dùng máy khắc để khắc bài Mạt chược vì thế những quân cờcó đường nét rất thanh và đẹp. Nhưng dù làm bằng chất liệu gì thì bài Mạt chược phải đạt được một số yếu tố như vuông vức, đều đặn, không tì vết, phải bền chắc và tạo tiếng kêu vui tai khi va chạm với nhau. Sở dĩ chơi Mạt chược được gọi là “xoa” Mạt chược cũng do khi làm bài người chơi xoa bộ bài trên mặt bàn để trộn bài thay vì xào bài như các loại bài giấy, bài thẻ.
Mạt chược có nhiều cách đánh khác nhau, số lượng quân cờ cũng gia giảm tùy theo từng nơi, và luật chơi trong mỗi nhóm. Một bộ mạt chược thông thường như cách chơi của Hồng Kông có 144 quân, nhưng cách người Việt mình hay đánh lại xài đến 160 quân, hay sau này tăng lên 176 quân. Trong khi đó cách đánh của dân Tàu ở Tứ Xuyên lại chỉ có 72 quân, ở Hồ Nam dùng 108 quân. Lúc tôi ghé thăm Đại Hàn, lại thấy bà con xài bộ mạt chược chỉ có 104 quân. Hầu hết cách đánh là mỗi người được chia 13 quân, và cộng với quân bài dùng để ù (tới) thành 14. Nhưng khi ở Đài Loan, tôi đứng xem mấy anh thợ ngồi đánh lúc giải lao thấy mỗi người lại có đến 16 quân, cộng quân tới là 17. Người Phi Luật Tân cũng dùng 16 quân như mấy anh Đài Loan, duy luật chơi có đổi một chút.
Trong bài này hocvienbroadgame chỉ đề cập đến cách đánh mạt chược kiểu Hồng Kông (HongKong Mah Jong), vì đây là cách đánh căn bản, từ đó những cách đánh khác chỉ là sự biến hóa chút đỉnh mà thôi, nhằm có nhiều điểm hơn, hoặc làm cho mau ù hơn.
2-Giới thiệu bộ cờ mạt chược Hồng Kông
TÀI PHAO
Bao gồm tứ phong và tam nguyên
- Loại tứ phong ( Gió ) : Đông, Nam, Tây, Bắc ( 16 quân ).
- Loại Tam Nguyên ( Rồng ): Hồng Trung, Lục Phát, Bạch Bản ( 12 quân )
- Loại số : gồm có 9 con Vạn, 9 con Sách, 9 con Văn (9 con tức là đếm từ 1 đến 9).
HÀNG VẠN
Loại Vạn thì bên dưới có 1 chữ Vạn ( 36 quân )
HÀNG SÁCH
Loại Sách/Sọc : là các gạch thẳng và con 1 Sọc là hình 1 con chim.( 36 quân )
HÀNG VĂN
Loại Văn là các hình tròn ( 36 quân ) .
HOA
- Ngoài ra còn có bộ Hoa ( tổng bộ là 8 quân )
Bộ có số góc màu xanh là Hoa Xanh tượng trưng cho Xuân Hạ Thu Đông ( 4 quân )
Bộ có số góc màu đỏ là Hoa Xanh tượng trưng cho Mai Lan Cúc Trúc ( 4 quân )
Như vậy trọn bộ mạt chược kiểu Hồng Kông có tổng số là 144 quân chia ra như sau: – 36 quân hàng Vạn, – 36 quân hàng Văn, – 36 quân hàng Sách, – 16 quân cho bốn gió Đông Tây Nam Bắc, – 12 quân cho Trung Phát Bạch, – 8 quân cho hai bộ Hoa Xanh và Hoa Đỏ.
3- Điều kiện thắng cờ mạt chượcHồng Kông
Chơi mạt chược khi thắng, hay tới được gọi là Ù (win). Mục tiêu khi đánh mạt chược là sắp xếp các quân cờ sao cho thành 4 Nhóm và 1 Đôi (tròn bài). Mỗi người có trong tay là 13 quân cộng với quân bài Ù là 14.
14 quân bài khi tới được chia ra là 4 phu, mỗi phu 3 quân và 1 cặp
4- Luật chơi cờ mạt chược Hồng Kông
Xác định hướng Đông, Tây, Nam, Bắc :
1) Chọn chổ ngồi
Không bắt buộc, tuỳ người chơi muốn ngồi như thế nào cũng được. Nhưng vì có 1 số người tin rằng chỗ ngồi cũng ảnh hưởng đến “thế trận” nên họ thường chọn chỗ theo cách sau :
Ví dụ lấy bốn quân cờ Đông Nam Tây Bắc ra xoa rồi sắp chồng lên nhau, không định trước. Sau đó đổ 2 xí ngầu, người nào cao điểm nhất lấy con trên cùng, rồi người thứ hai bốc con kế, v.v. Người nào bốc được quân Đông, gọi là Cửa Đông, được ưu tiên chọn chổ ngồi, hướng nào tùy thích. Người quân Nam, Cửa Nam, sẽ ngồi bên tay phải người Cửa Đông; bên phải người cửa Nam là người Cửa Tây, bên phải Cửa Tây sẽ là Cửa Bắc. Cửa Đông là nhà trên Cửa Nam, Cửa Nam là nhà trên Cửa Tây, Cửa Tây là nhà trên Cửa Bắc, và Cửa Bắc lại là nhà trên Cửa Đông. Dòng luân chuyển của các cửa trong mạt chược đi ngược chiều kim đồng hồ.
2) Chia quân bài
Tất cả các quân cờ phải úp xuống, sau đó trộn các quân lẩn với nhau, rồi sắp thành hai hàng, mỗi hàng 18 quân chồng lên nhau, rồi đẩy ra trước làm thành một hình vuông nhỏ. Việc sắp các quân bài thành hàng ngay ngắn, người ta dùng một miếng gổ nặng đặt phía trước để sắp cho dễ dàng.
Người Cửa Đông là người cái (dealer) đổ 2 hoặc 3 viên xí ngầu ra đếm điểm để chia quân bài.
Mỗi người xếp 160/4=40 quân thành 20 đôi, bầy ngang trước mặt.
Ví dụ :
Đổ ra 10 điểm, người Cửa Đông đếm 1, Nam là 2, Tây là 3, Bắc là 4, trở lại Đông là 5, tiếp tục đến số 6,7,8,9,10 thì dừng ở số 10 sẽ là cửa Nam.
Quân cờ sẽ được lấy từ dãy của Cửa Nam, tiếp tục đếm số thứ tự của các quân cờ đã được xếp thành 1 hàng 2 tầng ở Cửa Nam. Đếm theo thứ tự từ trái sang phải.
Đếm 1,2,3,4,5…10. Thì sẽ dừng lại ở vị trí này ( vị trí thứ 10 ). Không lấy quân cờ ở vị trí 10. Lấy quân cờ ở vị trí thứ 11.
Lưu ý : Lấy quân cờ theo chiều kim đồng hồ nhé trong khi đó thứ tự các cửa lại đi ngược chiều kim đồng hồ.
Người chơi cửa Đông lấy đầu tiên, lấy 4 quân cờ. ), rồi đến người kế là Cửa Nam, Tây, Bắc.
Sau khi lấy 3 lần 4 quân, tức ta được 12 quân cờ trên tay. Thì lấy thêm một quân nữa để đủ 13 quân. Người Cửa Đông vì là nhà cái, sẽ lấy thêm một quân để thành 14. Lấy không đủ ở Cửa Nam thì lấy tiếp bên Cửa Đông
3) Nhà cái
Ván bài đầu tiên, nếu người Cửa Đông ù thì tiếp tục làm cái, nghĩa là đổ xí ngầu và ngắt hàng như trên.
Nếu người khác tới, bất kỳ của nào, thì Cửa Đông đang từ vị trí 6 giờ sẽ dời về vị trí 3 giờ, như thế người ở Cửa Nam sẽ trở thành Cửa Đông và được làm cái (đổ xí ngầu và ngắt hàng). Cứ tưởng tượng như chúng ta quay cái mặt đồng hồ, như thế Cửa Nam trở thành Cửa Đông, Cửa Tây thành Cửa Nam, Cửa Bắc thành Cửa Tây, và Cửa Đông thành Cửa Bắc.
4) Các lượt của ván cờ
Gồm bốn gió Đông Nam Tây Bắc (4 rounds). Mới bắt đầu đánh là gió Đông, từ người cửa Đông. Khi cửa Đông di chuyển một vòng trở về nơi ban đầu thì đổi qua gió Nam. Có ít nhất là 16 bàn, thông thường là nhiều hơn, người nào cũng có cơ hội làm cái (dealer) trong mỗi gió (round).
5) Luật đi bài
Cửa cái 14 quân và sẽ đánh ra 1 quân đầu tiên.
14 quân bài khi tới được chia ra là 4 phu, mỗi phu 3 quân và 1 cặp
+ Cứ hai quân bài giống y nhau là một Cặp
+ Phỗng ( Pung, Pong) – hay còn gọi là phu ngang là ba con giống nhau..Ví dụ : TỨ VẠN, ba quân gió Đông, bà quân rồng Trung . Phỗng có thể tự bốc lấy, hoặc ăn từ bất kỳ ai đánh ra. Giả sử nếu mình đang có hai con nọ giống nhau mà người khác đánh ra thêm con khác giống mình từ bất kỳ cửa nào cũng có quyền ăn, khi đó phải xướng lên “phỗng”
+ Phình – ( có 1 số người gọi là XUYÊN (Chow, Cheung) ) :hay còn gọi là phu dọc là theo thứ tự, ví dụ 234, 345, 789, 123… Điều kiện : Ba quân cùng hàng Vạn, hay hàng Văn, hay hàng Sách đi liền nhau như Nhất Nhị Tam VẠN, hay Nhị Tam Tứ VẠN, hay Tứ Ngũ Lục SÁCH chẳng hạn, không được đem hàng này kết với hàng khác. ). Quân bài thứ ba lập thành Xuyên chỉ có thể ăn từ Nhà Trên đánh xuống, hoặc tự bốc lấy.
+ Tài phao ( tứ phong và tam nguyên ) : chỉ được phỗng chứ không được ăn. Ví dụ : Chỉ được 3 quân Đông-Đông-Đông, không thể có 3 quân Đông-Nam-Tây)
+ Chiếu (Kong) là khi đã có sẳn ba quân giống nhau trong tay (Phỗng) cộng thêm 1 quân do người nào đánh ra quân thứ tư, hay tự bốc. Khi ấy, chớ quên phải bốc thêm một quân bài, nơi phần bài chết (dead wall)* – dùng để đổi khi bốc nhằm các quân Hoa. Nếu không sẽ thiếu quân trong tay.
*Phần bài chết (dead wall) – dùng để đổi khi bốc nhằm các quân Hoa. Trong số quân bài đầu tiên này, ai có quân Hoa trong tay thì dựng ra trước mặt và thay thế bằng các quân bài ở dãy bài nơi Cửa Nam (từ cặp 1-10 ).
Sau khi sắp xếp cho có thứ tự, các quân cùng hàng gần nhau cho dễ nhìn bên trái, bên phải là các quân rác, lẻ loi, Cửa Đông sẽ đánh trước ra giữa bàn, khi ấy trên tay còn lại 13 quân như mọi người. Nếu Cửa Nam không ăn được thì sẽ bốc, tiếp theo nơi dãy bài đã lấy 13 cây lúc đầu. Nếu có ai Phỗng, hay Chiếu, thì người đó cứ tiếp tục đánh như bình thường, không cần phải đánh ngược về
5) Ưu tiên
- Ưu tiên thứ nhất là người có thể dùng quân bài ấy để Ù. Nếu có hai hay ba người đều cùng chờ một quân bài để Ù, người ngồi ngay dưới được ưu tiên hơn, ví dụ như cửa Đông đánh ra thì cửa Nam ưu tiên hơn cửa Tây và Bắc, cửa Tây ưu tiên hơn cửa Bắc, v.v.
- Ưu tiên thứ hai là người muốn dùng quân bài ấy để làm thành Phỗng (Pong) hay Chiếu (Kong).
- Ưu tiên để dùng quân bài làm thành Xuyên chỉ dành cho người ngồi cửa dưới mà thôi, ví dụ như cửa Đông đánh ra thì chỉ có cửa Nam có thể ăn thành Xuyên, nhưng nếu cửa Tây hay cửa Bắc muốn ăn thành Phỏng hay Chiếu thì họ có ưu tiên hơn.
6) Cách ù
6.1.Bài ù muỗi, nhỏ nhất không có phán nào, nếu 4 phu có cả phình lẫn phỗng:
6.2. Nếu 4 phu đều là phình thì ù 1 phán (ù phình) như bài dưới đây, khi mà Đông không phải là cửa! Nếu Đông là cửa thì chỉ ù muỗi.
6.3.Nếu 4 phu toàn là phỗng thì ù 3 phán (ù tui tui)
6.4. Nếu 14 quân toàn là một hàng, thí dụ Vạn, thì ù toàn hàng, được 6 phán (gọi là mủn cun) như bài dưới đây
6.6. Nếu không ăn của ai, mà tự ù lấy thì gọi là bất cầu nhần, được tính thêm 1 phán.
6.7. Nếu chỉ chờ có 1 quân trong 1 phu hay 1 mắt mà bốc lấy được thì là ù xuyên, thêm 1 phán.
6.8. Bài sau đây không ăn của ai rồi khi bốc lấy được con thất Vạn, là ù xuyên (1 phán), phình (1 phán), bất cầu nhần (1 phán) : tổng được 3 phán .
6.9. Nếu không ăn của ai mà bốc được 4 phu toàn là phỗng thì ù khản khản (ba mủn, (được 18 phán ) lớn hơn rất nhiều so với cách tính ù tui tui bất cầu nhần ).
6.10. Nếu có đủ 13 quân gồm yêu (1, nhất), cửu (9) và tài phao (Trung, Phát, Bạch, Đông, Tây, Nam, Bắc) thì chờ 13 tiếng: Con bài ? có thể là 1 trong 13 quân để thành mắt, và như vậy là ù Thập Tam Thái Bảo (13 phán).
6.11. Nếu 3 phu là 3 phỗng Trung, Phát, Bạch thì ù Đại Tam Nguyên (9 phán).
6.12. Nếu 2 phu là 2 phỗng có Trung, Phát, hay Bạch, còn lại một đôi Trung, Phát, hay Bạch làm mắt thì ù Tiểu Tam Nguyên, tính là 1 mủn (6 phán).
6.13. Nếu 4 phu toàn là phỗng Đông, Nam, Tây, Bắc là ù Đại Tứ Hỉ, 6 mủn (36 phán)
6.14. Nếu 3 phu là phỗng của 3 trong 4 con Đông, Nam, Tây, Bắc và con còn lại là môt đôi mắt thì ù Tiểu Tứ Hỉ, 4 mủn (24 phán)
5 – Cách Tính Điểm của Mạt chược
Đơn vị tính điểm trong mạt chược được gọi là Phán (Fan), dĩ nhiên là một ván càng khó xảy ra lại càng được nhiều Phán. Cứ có nhiều đặc tính thì cộng chung lại.
0 Phán: một ván bài vừa tròn để Ù không có gì đặc biệt.
1 Phán: được cộng cho những đặc điểm sau:
– có 4 Xuyên trong ván bài của bạn (your hand),
– đến phiên tự bốc lấy mà Ù,
– có Hoa cùng số thứ tự với chổ ngồi (1 cho của Đông, 2 Nam, 3 Tây, Bắc 4),
– có phỗng hay Chiếu cùng gió (phỏng quân Nam lúc đang ở gió Nam chẳng hạn),
– có phỗng hay Chiếu cùng cửa đang ngồi, như phỗng quân Đông lúc đang ngồi của Đông,
– có phỗng của bất cứ cây lọai rồng nào (Trung Phát Bạch)
– không có cây Hoa nào cũng được cộng thêm một phán,
– toàn quân bài ăn của người khác mà ù (cầu nhần),
– tất cả quân bài đều do tự bốc lấy (bất cầu nhần = concealed hand),
– bạn hoặc ai đó đang có ba quân phỗng trên bàn, nay bốc được quân thứ tư, nếu bạn lật lên để thêm vào phỗng thành “chiếu” rồi bốc thêm một quân thay thế và nếu được ù thì thêm được một phán nữa. Nhưng nếu có nào chờ đúng quân bài thứ tư mà bạn ké theo phỗng đó, họ có quyền ù và được thêm một phán, ngoài số điểm khác có sẳn trên tay. Cho nên khi ăn ké phỗng nên cẩn thận.
2 Phán : Được cộng thêm khi bài ù có
– phỗng hay chiếu quân bài cùng gió và cùng cửa, ví dụ quân bài Đông lúc đang ngồi cửa Đông, đang lúc ván bài ở gió Đông chẳng hạn,
– bốc lên quân bài để ù là quân bài cuối cùng (nhớ là 14 quân cuối cùng không được sử dụng),
– có bốn cây hoa cùng loại (4 hoa xanh hoặc 4 hoa đỏ).
3 Phán : Được cộng thêm khi bài ù
– gồm toàn phỗng và một đôi (4 nhóm ba quân giống nhau, và một đôi),
– gồm một hàng Vạn, hay Văn, hay Sách và những cây danh dự như gió và rồng (lai-hàng = semi-pure suit)
– có hai phỗng rồng, và một đôi rồng khác, ví dụ như ba quân Trung, ba quân Phát, hai quân Bạch và các quân bài khác ( tiểu-tam-nhân = junior three chiefs).
6 Phán : Được cộng thêm khi bài ù
– có ba phỗng rồng Trung Phát Bạch (đại-tam-nhân = grand three chiefs),
– bài ù có ba phỗng gió, một đôi gió và những cây khác (tiểu-tứ-hỉ = junior four happiness),
– bài ù gồm cùng một lọai hàng, như toàn hàng Văn chẳng hạn (pure one suit).
8 Phán : Được cộng thêm khi bài ù
– chỉ gồm có quân bài danh dự như gió và rồng (all honor tiles),
– có đủ bốn phỗng gió Đông Nam Tây Bắc (đại tứ hỉ = grand four happiness),
– có toàn phỗng trên tay và tự bốc ù (all concealed triplets),
– chỉ gồm quân Nhất và Cữu của mỗi hàng, cộng với một cây mỗi loại gió và rồng, quân bài ù là một trong mười ba quân đó, tự mình bốc hay người khác đánh ra cũng được (thirteen terminal tyles),
– người làm cái tròn bài với 14 quân đầu tiên (thiên ù = heavenly hand), do vậy mà người ta thích làm cái
– ù với quân bài đầu tiên do nhà cái đánh ra (địa ù = earthly hand)
6 – Cược Tiền của cờ Mạt chược
Khi đánh mạt chược, một ván bài Ù được tính xem có bao nhiêu Phán, và theo lề luật của trò chơi mà tính ra Điểm (points), rồi tùy theo sự qui định của người tham dự là 1đ bằng bao nhiêu tiền, 1000 đồng hay 2000 đồng
Sau đây là thang tính từ Phán (Fan) ra Điểm (points) thông thường trong trò chơi mạt chược.
Người nào tự bốc mà Ù, sẽ được mọi người chung tiền gấp đôi. Còn người nào đánh ra và bị người khác Ù sẽ phải chung tiền gấp đôi, hai người kia chung bình thường.
7 – Luật Phạt của cờ Mạt chược
– Ù nhầm : mức phạt tối đa như 32 hay 64 điểm và phải chung tiền cho mọi người.
– Chín (9) quân báo: nếu ai ăn ra mặt chín quân cùng hàng (Vạn, Văn hay Sách) thì phải báo cho mọi người biết mà lưu ý. Sau đó, nếu bạn mạo hiểm mà đánh ra quân bài cùng hàng, lỡ người báo ù “toàn hàng” quân bài bạn đánh ra, bạn sẽ phải chung luôn cho hai người kia. Có một điểm đặc biệt chổ này là lỡ có hai người báo hai hàng khác nhau, và bạn chỉ có một trong hai loại hàng đó thì sao. Luật cho phép bạn được quyền đánh cùng hàng của người báo thứ nhì mà không bị phạt, nhưng đánh vào hàng của người báo thứ nhất vẫn bị phạt như thường, nếu người thứ nhất ù toàn hàng. Có một điểm ly kỳ nữa, nếu bạn đánh ra cùng hàng, người báo lại Chiếu (Koong) với ba con khác trên tay, và bốc ù “toàn hàng”. Lúc đó bạn chỉ có từ chết đến bị thương, vì phải chung tổng cộng là 6 lần số điểm tính được, chứ không phải chỉ 4 lần như đánh ra mà người ta ù ngay.
Có một luật nữa, đôi khi áp dụng tùy thỏa thuận, là khi còn 5 quân bài để bốc cuối cùng (last five tiles penalty), ngoài 14 quân không đụng đến ở chót, ai đánh ra quân bài lạ, không có trên bàn, nếu có ai ù thì phải chung cho cả làng.
-Đôi lúc để tránh tình trạng “Ù chạy”, sợ người khác ù ván lớn, người chơi có thể thỏa thuận là chỉ được ù từ 1 hay 2, 3 Phán xấp lên mà thôi. Nếu bài của mình dưới số Phán ấn định thì mình không được quyền Ù, cho dù bài mình đã sẳn sàng.
-Nếu lỡ đang đánh nữa chừng, mình mới khám phá ra là mình thiếu hay dư bài (short or long hand), thường không bị phạt, nhưng bắt buộc phải ngồi đánh luôn, dù không được ù. Trong trường hợp này, bạn phải cố gắng đánh sao cho không ai ù, để tránh bị chung tiền gấp đôi.
8 – Các biến thể khác của cờ Mạt chược Hồng Kông
Ngoài Mạt chược Hồng Kông ra còn có các loại mạt chược khác như mạt chược Nhật bản, Mỹ, Việt Nam. Tuỳ theo đặc điểm bộ cờ và luật chơi mà có sự phân hoá khác nhau.
Top 1 cờ mạt chược tổng hợp bởi Tổng Hợp Nhà Cái Uy Tín
Hướng dẫn cách chơi Mạt chược
- Tác giả: thuthuatchoi.com
- Ngày đăng: 03/13/2022
- Đánh giá: 4.97 (689 vote)
- Tóm tắt: Mạt chược là một từ Hán Việt kép, nghĩa là con chim sẻ vừng. Trong bài mạt chược thì ký hiệu con chim sẻ là con bài thứ nhất của bộ bài, tức là con Nhất Sách.
- Nguồn: 🔗